2.2.2. Giáo dục tinh thần khởi nghiệp
Giáo dục về tinh thần kinh doanh chuẩn bị cho các cá nhân các kỹ năng kinh doanh sáng tạo để có được cơ hội cũng như thiết lập tốc độ của nền kinh tế mới thông qua việc hình thành hoạt động kinh doanh mới. Giáo dục về tinh thần kinh doanh, cốt lõi là giáo dục mọi người về xây dựng kỹ năng trong các lĩnh vực như đàm phán, lãnh đạo, phát triển sản phẩm mới, tư duy sáng tạo và đổi mới, cũng như nhận thức về khởi nghiệp như một lựa chọn nghề nghiệp (McMullen & Long, 1987; Vesper & McMullen, 1988; Hill, 1988; Donckels, 1991 được trích dẫn bởi Kuratko, 2003).
Ở Malaysia, từ năm 2011, giáo dục khởi nghiệp đã trở thành môn học bắt buộc và phải được giảng dạy bởi tất cả giáo viên tiểu học (Munirah Abd Hamid (2013), trang 4). Các môn học khởi nghiệp cũng bắt buộc đối với tất cả sinh viên các ngành khác nhau tại các trường đại học công lập trên toàn quốc (Yusoff, Zainol, & Ibrahim, 2014).
2.3. Thúc đẩy ĐMST từ phía cầu thông qua mua sắm công
Trong 20 năm trở lại đây, các chính sách ĐMST từ phía cầu, cụ thể là khuyến khích đổi mới thông qua mua sắm công ngày càng được quan tâm. Từ những năm 2000, hàng loạt báo cáo và văn bản chính sách nhấn mạnh nhu cầu sử dụng công cụ từ phía cầu bên cạnh các công cụ từ phía cung để đạt được các mục tiêu kinh tế – xã hội và R&D (European Commision, 2003; Kok, 2004; Edler et al., 2005; Aho et al., 2006; Edler và Georghiou 2007). Khái niệm sử dụng chi tiêu công như một công cụ chính sách ĐMST không phải mới khi nhiều nghiên cứu từ những năm 1970 đã khuyến nghị về tiềm năng của nhu cầu công trong việc khuyến khích ĐMST (Mowery và Rosenberg 1979; Rothwell và Zegveld 1981; Geroski 1990). Thậm chí, Geroski (1990) kết luận mua sắm công có thể là một công cụ hiệu quả hơn nhiều để kích thích sự đổi mới so với trợ cấp R&D.
Hiện nay, mua sắm công đã trở thành công cụ chính sách phổ biến để thúc đẩy ĐMST nói chung và ĐMST của doanh nghiệp nói riêng. Tại châu Âu, mua sắm công và các quy định, tiêu chuẩn mua sắm công là một phần trọng tâm của chính sách ĐMST (Ủy ban châu Âu 2010a, 2010b; OECD 2011; Chỉ thị 2014/24/EU 2014). Trong nghiên cứu của OECD về mua sắm chiến lược phục vụ cho đổi mới phát triển 2015, gần 80% các quốc gia tham gia khảo sát hưởng ứng chương trình mua sắm công cho đổi mới và 50% đã phát triển một kế hoạch hành động để thực hiện mua sắm cho đổi mới (OECD, 2017). Những ví dụ cụ thể về thành công trong việc sử dụng công cụ mua sắm công để thúc đẩy ĐMST doanh nghiệp có thể tìm thấy ở hầu hết các quốc gia châu Âu.
Các quốc gia sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để hỗ trợ mua sắm cho đổi mới, hầu hết là các công cụ chính sách, quy định hoặc công cụ pháp lý trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng quá trình lựa chọn và mua sắm. Ví dụ: Brazil đã đặt tỷ lệ định giá cao hơn lên tới 25% cho các sản phẩm sáng tạo địa phương, trong khi ở Hàn Quốc, 10% chi phí mua sắm sản phẩm từ doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) của tổ chức công sẽ dành cho Sản phẩm công nghệ mới (Lember và cộng sự (2014), trang 6).Các chương trình mua sắm hỗ trợ phát triển này không phải là phương thức được áp dụng ở riêng khu vực OECD mà ở nhiều nước khác nhau với các mức độ phát triển và thu nhập khác nhau.
Các chương trình được đưa ra để đáp ứng nhu cầu trực tiếp của Chính phủ (ví dụ: Chương trình sản phẩm công nghệ mới ở Hàn Quốc), xác nhận một số công nghệ được xã hội mong muốn (ví dụ: các chương trình chuyển đổi thị trường trong năng lượng ở Thụy Điển và Hoa Kỳ) hoặc thúc đẩy một số lĩnh vực công nghiệp chiến lược vì lý do cạnh tranh (ví dụ: phát triển ngành Công nghiệp dược phẩm ở Brazil, chương trình Năng lực ngành công nghiệp ưu tiên trong quốc phòng ở Úc).
Thành công điển hình từ chính sách hỗ trợ ĐMST bằng mua sắm công là chương hỗ trợ của Chính phủ Mỹ đối với các doanh nghiệp tiên phong trong kỷ nguyên vũ trụ của Space Angels. Theo báo cáo năm 2019 của Space capital, công ty tư nhân tiên phong về hàng không vũ trụ hiện nay của Mỹ, SpaceX, hoạt động với tổng số tiền tài trợ khoảng 1 tỷ đô la trong 10 năm đầu hoạt động, khoảng một nửa trong số đó đến từ các khoản thanh toán theo tiến độ cho các hợp đồng chính phủ (Space capital, 2019, trang 2). Với sự hỗ trợ và hợp tác từ Cơ quan Quản lý hàng không và vũ trụ quốc gia NASA, SpaceX đã đạt được thành công đầu tiên với việc đưa tàu vũ trụ Dragon capsule của họ đến Trạm vũ trụ quốc tế vào năm 2012. Năm 2021, SpaceX tiếp tục thành công với các dự án chính phủ khi đã giành được hợp đồng trị giá 2,9 tỷ USD của NASA để chế tạo tàu đổ bộ lên mặt trăng. Một ví dụ khác từ một quốc gia gần gũi hơn trong khu vực là Malaysia. Các chính sách của chính phủ Malaysia đã có những tác động không nhỏ tới việc tạo động lực và cơ hội cho các công ty Malaysia tiến hành các chương trình đổi mới thông qua mua sắm công. Dự án thành công có thể kể tới là trường hợp hộ chiếu điện tử. Malaysia là quốc gia đầu tiên trên thế giới áp dụng hộ chiếu điện tử từ năm 1998 (Mohd Jamal Kamdi, 2004). Công ty tiên phong, Tập đoàn IRIS Group của Malaysia, đã trở thành một công ty toàn cầu cung cấp giải pháp hộ chiếu điện tử cho hơn 12 quốc gia (Khairul Naim Adham, 2014).
Tại Việt Nam, các chính sách thúc đẩy ĐMST hiện nay vẫn còn tập trung chủ yếu vào hướng cung. Báo cáo chính sách doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) và khởi nghiệp tại Việt Nam năm 2021 của OECD nhận định, “Nhìn chung, chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo chủ yếu tập trung vào các biện pháp phía cung, trong khi ít chú ý đến việc xây dựng năng lực đổi mới ở cấp độ doanh nghiệp để tăng cường năng lực của các DNNVV trong việc tiếp thu công nghệ bên ngoài (phía cầu).” (OECD, 2021, trang 14). Mặt khác, một số nghiên cứu trong nước cho thấy cản trở lớn tới ĐMST của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là từ thị trường và nhu cầu chứ không còn là vấn đề vốn hay năng lực. Kết quả nghiên cứu của Cirera năm 2021 cho thấy, trở ngại lớn nhất đối với việc áp dụng và sử dụng công nghệ đối với doanh DNNVV ở Việt Nam là thiếu nhu cầu và không chắc về hiệu quả khi 75% doanh nghiệp DNNVV được điều tra lựa chọn nguyên nhân này, cao hơn so với vấn đề thiếu năng lực (gần 60%) và thiếu tài chính (gần 50%) (Cirera và cộng sự, 2021, trang 25-26). Gần đây nhất trong Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2021, 69% doanh nghiệp được điều tra cho biết tìm kiếm khách hàng là vấn đề khó khăn lớn nhất mà doanh nghiệp gặp phải, cao hơn so với vấn đề tiếp cận vốn (47%) hay thị trường biến động (32%).
Tóm lại, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, mua sắm công là công cụ chính sách được sử dụng rộng rãi và thành công trong việc thúc đẩy ĐMST của doanh nghiệp trên thế giới. Nhu cầu và những quy định từ mua sắm công thúc đẩy doanh nghiệp chủ động ĐMST, phát triển sản phẩm ở các lĩnh vực mang lại lợi ích cho quốc gia và có tiềm năng thương mại lớn.
3. Một số khuyến nghị chính sách
Từ kinh nghiệm quốc tế và thực trạng của Việt Nam, tác giả khuyến nghị một số chính sách nhằm thúc đẩy ĐMST của doanh nghiệp ở Việt Nam.
– Tăng tổng chi tiêu trong nước cho R&D, đặt mục tiêu tỷ lệ chi tiêu cho R&D so với GDP bằng các nhóm nước ĐMST nhanh trong khu vực (1 – 2%).
– Khuyến khích doanh nghiệp tiến hành hoạt động R&D, đặc biệt thông qua mối liên kết theo ngành dọc và theo ngành ngang với các doanh nghiệp nước ngoài. Thúc đẩy mối liên kết ĐMST giữa Doanh nghiệp – Trường đại học – Viện nghiên cứu. Tham khảo chính sách gián tiếp cho doanh nghiệp thông qua nguồn vốn R&D vào các trường đại học.
– Nâng cao chất lượng giáo dục đại học, tăng tỷ lệ học đại học và đào tạo nghề, nâng cao tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp các ngành khoa học và kỹ sư. Đặt mục tiêu Chỉ số giáo dục đại học của Việt Nam cải thiện Chỉ số đổi mới toàn cầu GII lên vị trí 75-80.
– Tăng đầu tư và trao quyền tự chủ về tài chính và quản lý cho các trường đại học, phát triển các trung tâm nghiên cứu trong một số trường đại học lớn định hướng nghiên cứu như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Bách Khoa Hà Nội.
Thúc đẩy ĐMST doanh nghiệp từ phía cầu thông qua chi tiêu công. Xây dựng các chương trình, dự án mua sắm công với những quy định và yêu cầu nhằm thúc đẩy ĐMST của doanh nghiệp trong nước, đồng thời phù hợp những mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường.
Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước mua bán, sử dụng các sản phẩm và dịch vụ mới của các doanh nghiệp nội địa. Xây dựng cơ chế phản hồi về sản phẩm và dịch vụ ĐMST của doanh nghiệp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp hoàn thiện sản phẩm và tiến hành thương mại hóa trên diện rộng hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Aho, Esko, Jozef Cornu, Luke Georghiou, and Antoni Subira. (2006). Creating an Innovative Europe. Report of the Independent Expert Group on R&D and Innovation appointed following the Hampton Court Summit.
- Chính phủ (2022). Nghị quyết số 02/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2022, <https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/Uploads/2022/1/7/20/NQ-02-CP.pdf>
- Cirera, X. et al. (2021). Firm-Level Technology Adoption in Vietnam, The World Bank (Policy Research Working Papers). doi: 10.1596/1813-9450-9567.
- Dongmin Kong, Bohui Zhang, Jian Zhang (2022). Higher education and corporate innovation, Journal of Corporate Finance, Volume 72, 2022, 102165, ISSN 0929-1199.
- Edler, Jakob, and Jillian Yeow. (2016). Connecting Demand and Supply: The Role of Intermediation in Public Procurement of Innovation. Research Policy45 (2): 414- doi: 10.1016/j.respol.2015.10.010
- Edler, Jakob, and Luke Georghiou. (2007). Public Procurement and Innovation-Resurrecting the Demand Side.Research Policy 36 (7): 949- doi: 10.1016/j.respol.2007.03.003
- European Commission (2003). Investing in research: an action plan for Europe. Brussels. [online] Available at: https://ec.europa.eu/invest-in-research/pdf/download_en/investing_en.pdf.
- European Commission. (2010a). Europe 2020 Flagship Initiative: Innovation Union. Brussels. [online] Available at: https://www.kowi.de/Portaldata/2/Resources/fp/com-2010-innovation-union.pdf.
- European Commission. (2010b). Europe 2020: A Strategy for Smart, Sustainable and Inclusive Growth: Communication from the Commission. Brussels. [online] Available at: http://aei.pitt.edu/42633/1/com2010_2020en01_straetry.pdf.
- Geroski, Paul A. (1990). Procurement Policy as a Tool of Industrial Policy. International Review of Applied Economics 4 (2): 182- doi: 10.1080/758523673
- Hoareau, C., Ritzen, J. & Marconi, G. (2013). Higher education and economic innovation, a comparison of European countries, IZA J Labor Stud 2, 24 (2013). https://doi.org/10.1186/2193-9012-2-24.
- Kok, Wim. (2004). Facing the Challenge: The Lisbon Strategy for Growth and Employment. Report from the High Level Group Chaired by Wim Kok. Luxembourg: Office for Official Publications of the European Communities.
- Kuratko, D. (2003). Entrepreneurship Education: Emerging trends and challenges for the 21st century, Coleman White Paper Series. [online] Available at: http://www.unm.edu/~asalazar/Kauffman/Entrep_research/e_ed.pdf.
- Lim Chuan Poh (2016). From Research to Innovation to Enterprise: The Case of Singapore, Chapter 10 in Global Innovation Index 2016-Winning with Global Innovation, WIPO, Cornell University, INSEAD.
- Malaysia National Economic Advisory Council (2010). New Economic Model for Malaysia Part 1. [online] Available at: https://www.pmo.gov.my/dokumenattached/NEM_Report_I.pdf
- Malaysia’s The economic planning unit Prime Minister’s department Putrajaya (2010), The 10th Malaysia Plan. [online] Available at:https://www.pmo.gov.my/dokumenattached/RMK/RMK10_E.pdf
- Mohd Jamal Kamdi (2022), The malaysian electronic passport, [online] Available at: https://www.icao.int/Meetings/FAL12/Documents/Malaysia.pdf
- Mowery, David, and Nathan Rosenberg (1979). The Influence of Market Demand upon Innovation: A Critical Review of Some Recent Empirical Studies. Research Policy 8 (2): 102- doi: 10.1016/0048-7333(79)90019-2.
- Munirah Abd Hamid (2013). Entrepreneurship Education: The Implementation in Year 1 Primary School Curriculum in Malaysia : a Case Study of One District in East Peninsular Malaysia, PhD thesis, University of York.
- OECD (2017). Public procurement for innovation: good practices and strategies, [online] Available at: https://read.oecd-ilibrary.org/governance/public-procurement-for-innovation_9789264265820-en?fbclid=IwAR2uCkcjsZS3sXyPuimh-q8Hh-bWWugpkM1mASjLfGO-EI2T09hlV62mV3.
- OECD (2021). Báo cáo chính sách DNNVV và khởi nghiệp tại việt nam. Tổng quan đánh giá và kiến nghị chính sách, <https://doi.org/10.1787/30c79519-en>
- OECD (2021). Số liệu Tổng chi tiêu cho R&D năm 2021, <https://data.oecd.org/rd/gross-domestic-spending-on-r-d.htm
- (2011). Demand-side Innovation Policies. OECD Publishing.
- Pan, Xia; Gao, Yuning; Guo, Dong; Cheng, Wenyin (2020). Does Higher Education Promote Firm Innovation in China?, Sustainability, 12(18), 7326-. doi:10.3390/su12187326
- QS World University Rankings (2022). [online] Available at: https://www.topuniversities.com/university-rankings/world-university-rankings/2022
- Rothwell, Roy, and Walter Zegveld. (1981). Industrial Innovation and Public Policy: Preparing for the 1980s and the 1990s. London: Frances Pinter.
- Space capital (2019). US government support of the entrepreneurial space age – 2019, [online] Available at: https://www.spacecapital.com/publications/us-government-support-of-entrepreneurial-space-age-nasa-jpl#:~:text=The%20modern%20space%20economy%20is,and%20creating%20a%20dynamic%20marketplace
- UNESCO Institute of Statistics, Số liệu Khoa học, công nghệ và Đổi mới sáng tạo, < http://uis.unesco.org/ >
- Veiko Lember & Rainer Kattel & Tarmo Kalvet, (2014). How Governments Support Innovation Through Public Procurement: Comparing Evidence from 11 Countries, in: Veiko Lember & Rainer Kattel & Tarmo Kalvet (ed.), Public Procurement, Innovation and Policy, edition 127, chapter 0, pages 287-309, Springer.
- World Intellectual Property Organization WIPO, Chỉ số đổi mới sáng tạo ĐMST toàn cầu GII các năm, <https://www.wipo.int/global_innovation_index/en/>
- Yusoff, M., Zainol, F., & Ibrahim, M. (2014), Entrepreneurship education in Malaysia’s public institutions of higher learning: A review of the current practices, International Education Studies, 8, 17-
Theo: tapchicongthuong.vn